- Đa số các TCVN không được đối tác quốc tế công nhận khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trước các hàng rào kỹ thuật trong giao dịch thương mại.
Dệt may đang gặp nhiều khó khăn khi có tới 40% tiêu chuẩn đã lạc hậu. |
Ngành nông nghiệp, thực phẩm vốn là lĩnh vực luôn gặp phải những đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng khi xuất khẩu. Thế nhưng, khảo sát sơ bộ mới đây của Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam cho thấy: có đến 48% tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) liên quan đến thực phẩm đã bị lạc hậu so với trình độ quốc tế.
Sự lạc hậu về trình độ và không hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành khiến cho đa số các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá Việt Nam thường không được đối tác quốc tế công nhận.
Cà phê là một ví dụ điển hình. Trong suốt những năm qua, ngành cà phê luôn gặp những khó khăn khi xuất khẩu do phía nước ngoài không công nhận TCVN. Ông Đoàn Triệu Nhạn - Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam đã rất tự tin khi nói rằng ngành cà phê là một ngành có trách nhiệm với khách hàng, với phần lớn sản phẩm hướng tới xuất khẩu nên đã xây dựng cho mình 27 TCVN, bao trùm hầu hết các lĩnh vực chất lượng cà phê. Trong đó có những tiêu chuẩn tự xây dựng và có nhiều tiêu chuẩn chấp nhận theo quốc tế. Nhưng trong giao dịch mua bán, các đối tác vẫn không công nhận và sử dụng các TCVN mà thường dùng lối thoả thuận chất lượng theo tiêu chí mà họ đề ra. Mặc dù Hiệp hội đã nhiều lần đề nghị các đối tác áp dụng TCVN trong giao dịch nhưng vẫn chưa được chấp nhận. Thực tế này đẩy doanh nghiệp vào thế bị động. Và theo ông Nhạn, đây thực sự là một khó khăn về kỹ thuật đối với doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Tình trạng này còn là nỗi lo chung ở nhiều ngành, thậm chí là những ngành được xem là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Thông tin từ Vụ Khoa học - công nghệ, Bộ Công nghiệp cho biết: đến nay, toàn ngành dệt may vẫn còn khoảng 40% các tiêu chuẩn xây dựng từ trước năm 1990 đã lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới, cần sớm được soát xét và loại bỏ để hài hoà với các tiêu chuẩn thế giới đã được công nhận. Điều này càng trở nên cấp bách khi tốc độ phát triển dệt may Việt Nam ở mức khá cao (14%/năm) và sức ép rào cản kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu ngày càng tăng lên.
Theo các chuyên gia thuộc Trung tâm Tiêu chuẩn chất luợng Việt Nam, từ hàng chục năm trước, nước ta xây dựng nhiều hệ thống tiêu chuẩn ở cấp độ quốc gia, cấp độ ngành thuộc nhiều lĩnh vực. Điều đáng nói là, các tiêu chuẩn được ban hành từ trước năm 1990, trên cơ sở tham khảo tiêu chuẩn của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu mà chủ yếu là Liên Xô, nhưng do trình độ sản xuất của ta lúc đó còn thấp nên đa số tiêu chuẩn đều có trình độ ở mức trung bình.
Đến nay, sau 20-30 năm rất nhiều tiêu chuẩn đó vẫn tồn tại trong danh mục TCVN mặc dù thực tế sản xuất và yêu cầu thị trường đã thay đổi rất nhiều. Trong khi đó, thông thường mỗi tiêu chuẩn sau 5-6 năm áp dụng phải được soát xét, sửa đổi cho phù hợp với thực tế sản xuất. Và như vậy, hệ thống TCVN trở nên lạc hậu, so với yêu cầu sản xuất và quản lý trong nước, chưa hài hoà và không được các đối tác công nhận là hậu quả tất yếu của một giai đoạn dài chúng ta thiếu quan tâm đến vấn đề xây hệ thống tiêu chuẩn chất lượng.
Trong 2-3 năm gần đây, tình hình đã có nhiều thay đổi, các ngành đã rất quan tâm đến việc xây dựng các TCVN theo hướng tham khảo hoặc chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng tốc độ vẫn còn chậm do những khó khăn về kinh phí, sự thiếu đồng bộ về văn bản pháp lý của các Bộ, ngành.
Lo ngại trước thực tế này, các chuyên gia đã cảnh báo: Với tốc độ làm như hiện nay chúng ta sẽ mất từ 20-30 năm nữa mới có thể soát xét xong các tiêu chuẩn đã lạc hậu. Đó là chưa kể yêu cầu xây dựng các tiêu chuẩn mới, cập nhật các tiêu chuẩn đang sử dụng theo yêu cầu 5 năm một lần.
Trước yêu cầu của việc quản lý sản xuất, tiêu dùng và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, rất nhiều chuyên gia cho rằng, đã đến lúc phải tổ chức soát xét lại toàn bộ hệ thống TCVN bằng một chương trình riêng nhằm nâng cao trình độ các TCVN, đảm bảo hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế.
-
Nguyên Phong
source
http://vietbao.vn/Kinh-te/Noi-lo-tu-nhung-tieu-chuan-lac-dieu/20380822/87/
Tình hình xây dựng và soát xét các tiêu chuẩn trong lĩnh vực xi măng và bê tông giai đoạn 2004-2009 | | ||
|
http://www.tonghoixaydungvn.org/default.aspx?Tab=142&Tinso=2599
****************************************************
Các tiêu chuẩn sử dụng để thiết kế nhà cao tầng hiện nay
Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam hiện nay dựa khá nhiều vào tiêu chuẩn SNIP của Nga. Một số tiêu chuẩn chưa có thì được sử dụng kết hợp với các tiêu chuẩn nước ngoài. Hiện nay, một số tiêu chuẩn dùng để thiết kế nhà cao tầng ở Việt Nam bao gồm:
[sửa] 1. Nguyên tắc và nguyên lý thiết kế[1]:
- TCXDVN 323:2004 - Nguyên tắc thiết kế nhà cao tầng
[sửa] 2. Xác định tải trọng:
- TCXD 375 : 2006 Thiết kế công trình chịu động đất - Phần I - Quy định chung, tác động của động đất và quy định với kết cấu nhà[3]
- TCXD 375 : 2006 Thiết kế công trình chịu đông đất - Phần II - Nền móng - Tường chắn và các vấn đề kỹ thuật[3]
- TCXD 229:1999 - Chỉ dẫn tính toán thành phần động của tải trọng gió theo TCVN 2737:1995
- Uniform building code UBC 1997
- SNIP-II-7-81 (1997)
[sửa] 3. Thiết kế cấu kiện:
....
[sửa] 4. Nền móng
[sửa] 5. Thi công
[sửa] Thi công bê tông
[sửa] Thi công cọc
sửa Các hạn chế
Các chuyên gia trong lĩnh vực này cũng cho rằng,công trình cao tầng ở Việt Nam phát triển chậm hơn các nước khác trên thế giới tới vài chục năm, cả trong hình thức, kết cấu chịu lực cũng như VLXD.[6]
Mặc dù Nhà nước đã ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật và hướng dẫn trong thiết kế, thi công, phòng tránh hoả hoạn, sét, các trường hợp xảy ra sự cố đột ngột...trong xây dựng nhà cao tầng. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn này phần lớn lại giới hạn chiều cao nhà đến khoảng 40 tầng, tương ứng 120 m chiều cao. Những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng nhà cao tầng trên thế giới cũng đang được ứng dụng mạnh mẽ vào Việt Nam, nhưng do sự không tương đồng của điều kiện khí hậu, thời tiết, địa chất công trình cũng như nhiều yếu tố khác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới nên đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp riêng phù hợp với điều kiện của mình. [6]
Một điều các tiêu chuẩn của Việt Nam không theo thông lệ với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế là trong tiêu chuẩn qui định cả "cái gì" và "làm như thế nào" , trong khi thế giới chỉ qui định là "cái gì", còn "làm như thế nào" in nghiêng (khuyến khích áp dụng) có thể bằng cách này hay cách khác. Nếu như kỹ sư không biết cách hay hơn thì cứ sử dụng theo cách người ta kiến nghị (in nghiêng) trong tiêu chuẩn. Ở Việt Nam các TCVN, TCXD cũng đang chuyển dần theo cách này.
Đến nay vẫn còn một số tiêu chuẩn vẫn chưa được cập nhật ví dụ như TCVN 2737:1995, trong khi ở các nước khác cứ 2-4 năm họ lại cập nhật tiêu chuẩn một lần. Một trong những nguyên nhân có lẽ là sự tranh cãi giữa hai phái trong các nhà làm tiêu chuẩn nước ta: một phái khuyến khích sử dụng tiêu chuẩn nước ngoài đồng bộ, còn một phái đề xuất chắt lọc những thứ tinh hoa nhất của các nước để trộn lại thành một tiêu chuẩn "made in VN". Ví dụ gần đây có một số chuyên gia dự định biên soạn lại TC kết cấu BTCT bằng cách chắp vá một chút của Trung Quốc, 1 chút BS, một chút LX cũ (không phải TC Nga mới), một chút EUROCODE, nhưng dự án này đã bị bác.
Hơn nữa, hệ thống tiêu chuẩn thiết kế xây dựng nhà cao tầng của VN vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, các cơ quan nghiên cứu và bản thân doanh nghiệp đang phải tiếp tục tập hợp để trình Bộ Xây Dựng ban hành trong thời gian tới [7][8].
Hệ thống các tiêu chuẩn mới sẽ phải bao gồm cả tiêu chuẩn thiết kế nhà ở chung cư cao tầng, các tiêu chí đánh giá chất lượng, tiêu chuẩn xây dựng và phòng cháy, hệ thống thu gom rác thải và tiêu chuẩn về môi trường cho nhà cao tầng.
Ngoài ra, do có xu hướng tiết kiệm chi phí nên nhiều nhà thầu không tổ chức bộ phận kiểm tra chất lượng riêng mà chuyển nhiệm vụ cho các đội công trình và kỹ sư hiện trường khiến kết quả kiểm tra, giám sát chất lượng rất hạn chế [9][8]
sửa Sử dụng các tiêu chuẩn nước ngoài ở Việt Nam
Theo Luật vê Tiêu chuẩn ban hành 2006 thì các Tiêu chuẩn đều mang tính tham khảo.
Với những công trình có yếu tố nước ngoài hoặc có quy mô và vốn đầu tư lớn, chủ đầu có thể sử dụng thiết kế đồng bộ theo tiêu chuẩn Mỹ (hoặc Anh) từ A dến Z. Một số tiêu chuẩn thường được sử dụng là Mỹ(ACI, ASD, LRFD, UBC, API...) Anh(BS5950, BS8110...), Úc, Canada... Điều này cũng dễ hiểu vì việc chọn tiêu chuẩn nào áp dụng cho công trình nào là thuộc quyền quyết định của chủ đầu tư (qua tham khảo công ty tư vấn ). Hiện nay Bộ Xây dựng VN (MoC) cho phép sử dụng 7 tiêu chuẩn của các nước tiên tiến - trong đó có Mỹ - trong việc tính toán thiết kế các công trình xây dựng tại Việt Nam.
Với một số công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, chủ đầu tư thường yêu cầu tính toán bằng TCVN (ở nước ngoài đa phần các công trình xây dựng không phải từ vốn ngân sách nhà nước do đo nhà nước (hay đại diện là bộ xây dựng) không có ảnh hưởng đến việc quyết định tiểu chuẩn xây dựng sẽ được dùng trong tính toán).
Thông trường trong trường hợp này các kỹ sư đành phải "đông tây y kết hợp" do vấn đề là tiêu chuẩn XDVN chưa được cập nhật kịp thời. Trong hoàn cảnh hiện nay, giải pháp này là có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, việc sử dụng tiêu chuẩn nào tính toán phải xem xét tới sự đồng bộ của nó với các tiêu chuẩn khác. Mọi việc áp dụng khập khiẽng đều không nên vì đó là việc này không đơn giản do tiêu nhiều chuẩn của chúng ta còn chưa đồng bộ.
Cách giải quyết cho mỗi dự án cụ thể đã được chấp nhập là Chủ Dự án phê duyêt Khung Tiêu chuẩn pháp lý của dự án. Như vậy sẽ không có tình trạng mâu thuẫn nữa trong dự án đó. Chỉ đáng lo là do trình độ của Chủ Đầu tư không đủ, phải thuê ông Tư vấn thì Ông này lại cũng có thiếu sót về kiến thức thực tế và thông tin thị trường. Cũng có thể xảy ra tinh huống là các Tiêu chuẩn đã được duyệt trong Khung Tiêu chuẩn pháp lý của dự án mà lại có chỗ không đồng bộ với nhau.
Điều này sẽ thay đổi trong thời gian tới. Sắp tới sau hơn 20 năm biên tập. Bộ tiêu chuẩn của châu Âu (eurocodes ) (trong đó có EC2(concrete), EC3(structural steel), EC4(composite) - tiêu chuẩn thiết kế cho kết cấu bê tông, thép,và vật liệu composite) sẽ được chính thức áp dụng rộng rãi (trước kia là những đã có, nhưng chua đc hoàn thiện). Bộ tiêu chuẩn này được đánh giá là đầy đủ và được khá nhiều nước sử dụng. Trong tương lai khả năng bộ tiêu chuẩn này sẽ được áp dụng ở Việt Nam theo chủ trương của Bộ Xây Dựng. Chúng ta có lẽ không nên tự biên soạn lấy vì việc xây dựng một bộ tiêu chuẩn mất rát nhiều nghiên cứu và thực nghiệm, vậy tốt nhất nên áp dụng nhưng có kể đến một số điều kiện của Việt Nam, thế còn hơn là tự đầu tư xây dựng cho riêng mình.
sửa Áp dụng nhiều tiêu chuẩn thiết kế kết hợp
Với tình hình tiêu chuẩn trong nước phần nào không bắt kịp yêu cầu phát triển và sự "xâm nhập" của nhiều hệ thống tiêu chuẩn ngoại tiên tiến (Bộ xây dựng cũng khuyến khích dùng các tiêu chuẩn tiến tiến), thì vấn đề chuyển đổi các yếu tố giữa các tiêu chuẩn được đặt ra là tất yếu.
Việc áp dụng tiêu chuẩn không đơn thuần là áp dụng các công thức và con số vào trong tính toán. Các lý thuyết tính đều dựa trên những giả thiết và hạn chế nhất định. Do đo khi áp dụng tiêu chuẩn cũng phải biết được hạn chế đó. Lấy ví dụ đơn giản đó là vật liệu sử dụng.
Bất kỳ tiêu chuẩn nào cũng có nói về những loại vật liệu nào được sử dụng với tiêu chuẩn này. Điều này rất quan trọng vì những vật liệu không theo tiêu chuẩn sẽ làm việc áp dụng các công thức trong tiêu chuẩn trở nên vô nghĩa. Cường độ của vật liệu không phải là điều quan trong nhất khi thiết kế kết cấu. Chúng ta đã khá quen thuộc với việc thiết kế kết cấu vói các điều kiện về cường độ, độ bền, ổn định rồi võng và biến dạng. Tuy nhiên đối với các loại kết cấu có điều kiện làm việc đặc biệt thì các yếu tố khác như độ ăn mòn, tính dẻo, tính mỏi...phải tính đến. Thêm vào đó dung sai của các cấu kiện cũng là điều quan trọng, và nó cũng khác nhau đối với mỗi tiêu chuẩn.
Khi áp dụng nhiều tiêu chuẩn thiết kế cần phải chuyển đổi giữa các tiêu chuẩn sao cho phù hợp
Thăm dò (bạn cần đăng nhập để bỏ phiếu)
sửa Xem thêm
- Tập hợp các tiêu chuẩn Xây dựng
- Chuyển đổi giữa các tiêu chuẩn
- Chất lượng chung cư cao tầng
- Tiêu chuẩn xây dựng
- Quy chuẩn xây dựng
sửa Tham khảo
- ↑ Xem thêm Tiêu chuẩn chung về thiết kế
- ↑ 2,0 2,1 Tập hợp các tiêu chuẩn Xây dựng#5. Tiêu chuẩn Thiết kế nhà ở và các công trình công cộng
- ↑ 3,0 3,1 3,2 3,3 Xem thêm Tiêu chuẩn chung về thiết kế
- ↑ 4,0 4,1 Xem thêm Tiêu chuẩn Thiết kế bê tông cốt thép
- ↑ 5,0 5,1 5,2 5,3 5,4 5,5 5,6 Xem thêm Tiêu chuẩn Bê tông và cấu kiện bê tông
- ↑ 6,0 6,1 Cần các giải pháp mới trong xây dựng nhà cao tầng tại www.baoxaydung.vn
- ↑ Thứ trưởng Xây dựng Nguyễn Văn Liên - tại hội thảo "Chất lượng và công nghệ xây dựng nhà cao tầng" vào 22/05/2003
- ↑ 8,0 8,1 Thiếu tiêu chuẩn thiết kế và xây dựng nhà cao tầng tại vietbao.vn
- ↑ Nguyễn Mạnh Hà, đại diện Tổng Công ty Đầu tư và phát triển nhà - tại hội thảo "Chất lượng và công nghệ xây dựng nhà cao tầng" vào 22/05/2003
sửa Liên kết ngoài
- Thiết kế xây dựng công trình cao tầng theo quan điểm “an toàn” và “bền vững”
- Áp dụng 'chuẩn' thiết kế nước ngoài tại http://www.infoxaydung.com
- Áp dụng tiêu chuẩn JG 163-2004 của Trung Quốc đấu nối cốt thép
- Lưu ý khi áp dụng tiêu chuẩn nước ngoài phải tuân thủ Quy chuẩn Việt nam
source
http://vi.ketcau.wikia.com/wiki/Ti%C3%AAu_chu%E1%BA%A9n_thi%E1%BA%BFt_k%E1%BA%BF_v%C3%A0_x%C3%A2y_d%E1%BB%B1ng_nh%C3%A0_cao_t%E1%BA%A7ng
No comments:
Post a Comment