Wednesday, 17 March 2010
7 bất cập về thủ tục hành chính trong xây dựng
Thứ nhất, về thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng, hiện còn nhiều đô thị chưa phủ kín quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 nên thiếu cơ sở để quản lý, dẫn đến tình trạng phải thoả thuận về quy hoạch, kiến trúc, làm phát sinh thủ tục, mất nhiều thời gian, dễ dẫn đến tuỳ tiện, tiêu cực.
Khi thẩm định quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500, thì lại chưa thực hiện cơ chế “một cửa”, chủ đầu tư phải đi lấy ý kiến của từng cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng, môi trường, quốc phòng, hạ tầng kỹ thuật và các cơ quan có liên quan.
Thứ hai, các điều kiện để tổ chức đấu thầu, lựa chọn chủ đầu tư dự án theo quy định hiện nay khó thực hiện, nhất là quy định điều kiện về giá sàn tiền sử dụng đất; phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Thứ ba, việc đánh giá tác động môi trường làm thành 1 thủ tục riêng như hiện nay đang làm phát sinh thủ tục, tốn nhiều thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư.
Thứ tư, thủ tục liên quan đến việc thu tiền sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3 loại dự án trên chưa phù hợp thực tế, gây khó khăn cho nhà đầu tư.
Thứ năm, tại văn bản số 3803/BQP ngày 28/7/2006 của Bộ Quốc phòng “về việc quản lý các công trình xây dựng đảm bảo tĩnh không cho hoạt động bay, quản lý vạch ngang bảo vệ vùng trời” có yêu cầu đối với các công trình trong phạm vi quy định, chủ đầu tư phải xin ý kiến thoả thuận của Bộ Quốc phòng về chiều cao công trình.
Đây cũng là một thủ tục mà nhiều địa phương và các nhà đầu tư đề nghị cải tiến để cho chủ đầu tư cũng như cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng không phải đi xin thoả thuận của Bộ Quốc phòng cho từng công trình cụ thể.
Thứ sáu, theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP thì tất cả các dự án có vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng trở lên (bao gồm cả dự án đầu tư trong nước, dự án có vốn đầu tư nước ngoài) đều phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Đối với các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và các dự án từ 300 tỷ đồng trở lên thì phải làm thêm thủ tục thẩm tra trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Trong quá trình rà soát thủ tục hành chính, làm việc với các địa phương, các nhà đầu tư, nhiều ý kiến đề nghị bỏ thủ tục đăng ký và cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước, chỉ nên áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài như trước đây.
Thứ bẩy, một số địa phương tự đặt ra các thủ tục hoặc yêu cầu chủ đầu tư phải làm không đúng với quy định của Chính phủ như: xác nhận ranh giới đất không có tranh chấp, khiếu kiện; thoả thuận về địa điểm của dự án; chấp thuận đề cương nhiệm vụ đồ án quy hoạch; chấp thuận lập nhiệm vụ quy hoạch chi tiết xây dựng; chấp thuận về ranh giới, mốc giới và diện tích ô đất để lập quy hoạch...
Thậm chí còn yêu cầu chủ đầu tư đi xin ý kiến của nhiều cơ quan chuyên môn như: cấp điện, cấp nước, môi trường, phòng cháy chữa cháy, di tích lịch sử - văn hoá, tôn giáo, an ninh, quốc phòng...
Theo kết quả rà soát của Bộ Xây dựng, số lượng thủ tục của 3 loại dự án nêu trên vẫn còn tới khoảng 33 thủ tục/dự án và kéo dài tới 3 năm, trong đó có những thủ tục do địa phương tự đặt ra hoặc yêu cầu chủ đầu tư phải làm trái với quy định của Chính phủ.
Vì thế, việc chỉ ra những bất cập của bộ Xây dựng có ý nghĩa quan trọng cho việc ban hành Nghị Quyết về một số giải pháp trong cải cách thủ tục hành chính trong xây dựng.
Lan Hương
source
http://dantri.com.vn/c20/s20-251578/7-bat-cap-ve-thu-tuc-hanh-chinh-trong-xay-dung.htm
Sự cố công trình xây dựng - Bất cập trong quy định hiện hành và kiến nghị khắc phục
Sự cố công trình xây dựng - Bất cập trong quy định hiện hành và kiến nghị khắc phục Trong thời gian qua, Chính phủ và Bộ Xây dựng đã ban hành nhiều văn bản pháp lý liên quan việc hướng dẫn quản lý chất lượng, xử lý công trình vi phạm trật tự xây dựng, xử lý công trình khi có sự cố,… như các nghị định NĐ 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004, NĐ 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007, NĐ 23/2009/NĐ-CP ngày 27/2/2009 của Chính phủ, các Thông tư số 24/2009/TT-BXD ngày 22/7/2009, số 27/2009/TT-BXD ngày 31/7/2009 của Bộ Xây dựng…, qua đó đã tạo căn cứ để xử lý các vấn đề liên quan đến giải quyết các sự cố trong hoạt động xây dựng. I. GIẢI QUYẾT SỰ CỐ CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG: Từ thực tế hoạt động xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh, một số nội dung của các văn bản liên quan đã ban hành nêu trên nhằm xử lý công trình xây dựng gây ảnh hưởng hư hỏng cho công trình lân cận đã xuất hiện các bất cập, không khả thi, dễ bị lợi dụng, cần được điều chỉnh theo hướng “xã hội hóa” để các bên liên quan dễ xử lý, để vai trò QLNN của các địa phương không còn lúng túng khi giải quyết sự cố công trình xây dựng xảy ra ở các quy mô khác nhau. - Theo định nghĩa, ở điều 3, Luật Xây dựng, Sự cố công trình xây dựng là những hư hỏng vượt quá giới hạn an toàn cho phép, làm công trình có nguy cơ sụp đổ, đã sụp đổ 1 phần hay toàn bộ, hoặc công trình không thể sử dụng được theo thiết kế. Riêng về cụm từ “không thể sử dụng được theo thiết kế”, chưa được giải thích chi tiết, trên thực tế đã diễn ra cách hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Đã có những công trình tuy gây ảnh hưởng rất nhẹ đến công trình lân cận, như nứt nhẹ tường, lún nhẹ nền, rất hay xảy ra ở các công trình xây chen trong các đô thị của cả nước, nhưng được hiểu là không sử dụng được theo thiết kế, là sự cố và Thanh tra xây dựng địa phương tiến hành đình chỉ thi công ! Hơn nữa: - Nghị định 180/2007/NĐ-CP, ở điều 5, Công trình vi phạm trật tự xây dựng (TTXD) đô thị phải bị xử lý, bao gồm “công trình có tác động đến chất lượng công trình lân cận; ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư”. Chính định nghĩa được định lượng không rõ ràng này một lần nữa đang gây khó khăn thêm cho việc áp dụng thực tế; đặc biệt khi chủ đầu tư và các hộ dân lân cận bị ảnh hưởng đã có mâu thuẫn nhau từ trước hay những hộ bị ảnh hưởng có sự tính toán chi li quá đáng. QLNN khi thực hiện nhiệm vụ, đã lúng túng khi xử lý tình huống. Đối với hành vi vi phạm TTXD đô thị này, khi xảy ra, chủ đầu tư bị buộc bồi thường thiệt hại, là lẽ đương nhiên, nhưng mọi công trình phải bị đình chỉ thi công. Điều 15 của Nghị định 180/2007/NĐ-CP lại quy định về xử lý công trình xây dựng ảnh hưởng đến chất lượng công trình lân cận; ảnh hưởng đến môi trường, cộng đồng dân cư: Trường hợp công trình xây dựng gây lún, nứt, thấm, dột hoặc có nguy cơ làm sụp đổ các công trình lân cận thì phải ngừng thi công xây dựng để thực hiện bồi thường thiệt hại: a) Việc bồi thường thiệt hại do chủ đầu tư và bên bị thiệt hại tự thỏa thuận; trường hợp các bên không thỏa thuận được thì bên thiệt hại có quyền khởi kiện đòi bồi thường tại Tòa án; b) Công trình chỉ được phép tiếp tục thi công xây dựng khi các bên đạt được thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại. Nội dung bồi thường thiệt hại lại không quy định rõ ràng, thực tế được hiểu theo nhiều nghĩa! - Thông tư 24/2009/TT-BXD: Điều 4 – khoản 5 – mục b – công trình xây dựng gây ảnh hưởng hư hỏng cho công trình lân cận sẽ bị lập biên bản yêu cầu ngưng thi công và chỉ được thi công lại nếu đạt một trong các điều kiện sau: + Hai bên tự thỏa thuận được việc bồi thường; + Bên bị thiệt hại vắng mặt không có lý do chính đáng trong cả 2 buổi thỏa thuận do Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức; + Có quyết định, bản án có hiệu lực của Tòa án giải quyết tranh chấp giữa hai bên. Nhưng nếu phải giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án thì thường là thời gian thụ lý sẽ kéo dài. Chắc chắn để xử, Tòa sẽ cần trưng cầu giám định; xử xong, bên bị hại không đồng ý, khiếu nại cấp Tòa cao hơn…; công trình tiếp tục bị ngưng thi công. Đã có trường hợp người thi công rất lâu dẫn đến gây thiệt hại nặng cho chủ đầu tư (trong nhiều trường hợp, giá trị thiệt hại do không thể đầu tư lớn hơn nhiều lần giá trị thiệt hại của bên bị ảnh hưởng)! Số lượng công trình xây dựng nhiều nhất trên các địa bàn, vẫn là nhà ở liên kế phố trong những đô thị hiện hữu, trong đó nhiều công trình chủ đầu tư còn được phép tự thiết kế, không thuê giám sát, và do đó dễ xảy ra, những hành vi “vi phạm trật tự đô thị” đã nêu, nếu không có những hướng dẫn thật chi tiết. Thực tế nhiều trường hợp dẫn đến việc bên bị hại gây khó khăn, khiếu kiện kéo dài – kể cả khi 2 bên (gây hại và bị hại) đều thống nhất thuê một đơn vị trưng cầu giám định, nhưng sau đó lại phủ nhận kết quả trưng cầu này do bất lợi cho mình ! Công trình bị đình chỉ trong thời gian dài, nhiều trường hợp sẽ làm bên gây hại trở thành bên bị hại và ngược lại. - Việc “bồi thường thiệt hại” chưa quy định cụ thể, trên thực tế lại xảy ra những yêu cầu bồi thường, không chỉ về vật chất (đương nhiên), mà còn bồi thường những thiệt hại về kinh tế, về tinh thần… rất khó xác định. Đó là chưa kể đến việc phải đưa ra Tòa, Tòa án địa phương hầu hết đều lúng túng khi thụ lý những vụ án có nội dung này và nếu có thanh lý, lại phải thuê, một tư vấn độc lập để kiểm định, định giá. Bản thân đơn vị này cũng chỉ xác định giá trị thiệt hại về vật chất mà thôi. Sự tranh cãi bất tận; sự khiếu kiện có thể kéo dài đến các cấp Tòa cao hơn, như đã trình bày ! Kết quả là công trình bị đình chỉ thi công lâu dài! Việc “bồi thường thiệt hại” trên thực tế tại TP.HCM, còn xảy ra trường hợp chủ đầu tư không đủ năng lực tài chính giải quyết sự cố lớn cho các nhà lân cận; nhà thầu thì không tìm được, và bản thân nhà thầu cũng không khắc phục được (công trình đưa vào sử dụng gần 1 năm), như nhà 124A đường số 11 - phường 5 - quận Gò Vấp 2 tầng, mái bằng, sụp đổ, gây ảnh hưởng đến những nhà lân cận trong đó có 1 nhà 4 tầng (xem hình 1). Trước mắt, chính quyền quận Gò Vấp phải ứng ngân sách để trang trãi tất cả các chi phí khắc phục, đảm bảo lại an toàn cho khu vực, còn chủ đầu tư chấp nhận thụ án Tòa, khi vụ án được chính quyền khởi kiện ! Tất cả những trường hợp bất cập đó, cần được sửa đổi, hướng dẫn để giải quyết theo hướng hội nhập, xã hội hóa. II. VẤN ĐỀ MUA BẢO HIỂM: Điều 51, 58, 90 của Luật Xây dựng quy định các nhà thầu khảo sát, thiết kế, giám sát thi công có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Điều 72. Luật Xây dựng quy định nhà thầu thi công xây dựng công trình có nghĩa vụ mua bảo hiểm. Tuy nhiên Luật Kinh doanh bảo hiểm (hiệu lực 01/4/2001) lại quy định bảo hiểm trong hoạt động xây dựng không phải là bảo hiểm bắt buộc. Việc mua bán bảo hiểm trong hoạt động xây dựng được thực hiện như đối với các loại hình bảo hiểm tự nguyện phi nhân thọ khác. Các doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chủ động xây dựng quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm của từng loại hình bảo hiểm tương tự các loại hình bảo hiểm tự nguyện khác (văn bản giải thích số 13994/BTC-BH ngày 19/11/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn cho Sở Xây dựng TP.HCM) ! Thực tế, việc mua bảo hiểm trong các hoạt động xây dựng hiện nay đang diễn ra theo hướng: - Các đơn vị tư vấn (khảo sát, thiết kế, giám sát) mua bảo hiểm cho đơn vị mình theo 1 trong 2 dạng: mua cho toàn bộ hoạt động tư vấn có hợp đồng trong năm tài chính hay mua theo từng hoạt động riêng lẻ. Mức mua (và mức chi trả bảo hiểm tương ứng) không quy định mức sàn, nên thường là mua giá trị thấp, chiếu lệ, để không bị phạt khi Thanh tra xây dựng kiểm tra công trình. Các doanh nghiệp bảo hiểm do vậy cũng không cần thuê chuyên gia để phải xem xét năng lực tư vấn, giải pháp thiết kế, mức độ an toàn … để có cách hành xử (bán bảo hiểm) phù hợp như thông lệ các nước. Đặc biệt, các hoạt động tư vấn cho những công trình riêng lẻ của dân cư trong đô thị xây chen hầu như không mua bảo hiểm. Kết quả là khi xảy ra sự cố, do sơ suất nghề nghiệp, đơn vị tư vấn không đủ khả năng tài chính để khắc phục, gây thiệt hại cho xã hội và phức tạp cho việc quản lý các hoạt động xây dựng. - Các đơn vị thi công, do chưa bắt buộc mua, nên thường là không mua bảo hiểm thi công công trình,. Nếu có, đối với công trình lớn, là mua bảo hiểm máy móc thiết bị sử dụng và trách nhiệm bên thứ ba (và cũng chỉ mua tượng trưng). Việc mua đầy đủ các loại bảo hiểm công trình xây dựng, trang thiết bị và máy móc phục vụ xây dựng… thường chỉ tiến hành với những dự án lớn, đặc biệt các dự án liên quan đến đầu tư nước ngoài (FDI, ODA). Nhiều trường hợp khi sự cố xảy ra do biện pháp thi công, chủ đầu tư (và nhà thầu) rất khó khăn về năng lực tài chính để khắc phục. - Các văn bản pháp lý hướng dẫn Luật kinh doanh bảo hiểm, chủ yếu lại gồm những hướng dẫn các nội dung liên quan đến thành lập đơn vị, hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Hoàn toàn đang để trống những nội dung, những quy định cần có để hướng dẫn chi tiết về bảo hiểm trong hoạt động xây dựng. - Và do đó, cùng với nhiều yếu tố khác nữa (an toàn của lưới bao che công trình, của giải pháp chống vách tầng hầm khi thi công, kiểm tra chất lượng vách tầng hầm có kỹ sư chuyên trách an toàn tại công trường…) không được xem xét đúng mức đã làm cho giá xây dựng chưa tính đúng, tính đủ, dễ xảy ra sự cố và gây cản ngại cho việc xử lý sự cố nhanh chóng, đảm bảo quyền lợi bên bị hại. Chính vì vậy, ở nhiều công trình xây dựng trên cả nước hiện nay, việc mua các loại bảo hiểm của các bên vẫn còn là hình thức. Và đã là hình thức, đơn vị bán bảo hiểm cũng không cần năng lực chuyên môn cao về xây dựng, để có thể đánh giá năng lực của tư vấn, sự an toàn, hợp lý của biện pháp thi công nhằm xác định đúng giá trị cần bán bảo hiểm… Bảo hiểm đã không là cánh tay nối dài của các đơn vị QLNN trong hoạt động xây dựng, khi các hoạt động này diễn ra ở khắp các địa phương, hàng ngày. Bản thân lực lượng Thanh tra xây dựng cũng không đủ năng lực để kiểm tra, ngăn ngừa sự cố từ đầu và cũng không thể làm được khi không thường xuyên, liên tục có mặt ở công trình. Những bất cập này cần được khắc phục nhanh chóng, ngay từ đầu, một cách có hệ thống, bằng các quy định chặt chẽ của pháp luật. Trách nhiệm đa phần đang thuộc Bộ Tài chính. III. NHỮNG KIẾN NGHỊ 1- Những trường hợp vi phạm trật tự xây dựng, ảnh hưởng nhẹ đến công trình lân cận (phải do QLNN theo phân cấp ở các địa phương tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm khi đã xảy ra), phải buộc đình chỉ thi công nhưng tối đa 7 ngày, để xác định mức độ hư hại thật sự về vật chất và để chủ đầu tư công trình gây ảnh hưởng tự sửa chữa, khắc phục triệt để. Sau thời hạn này, nếu kết quả kiểm tra cho thấy hư hỏng không đáng kể, phương án thi công sẽ không gây ảnh hưởng tiếp và chủ đầu tư đã khắc phục sửa chữa, bồi thường các thiệt hại công trình sẽ được phép tiếp tục thi công. Nếu sau đó, tiếp tục gây ảnh hưởng công trình lân cận, mới buộc đình chỉ thi công để có giải pháp khắc phục triệt để được thẩm tra. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong xây dựng công trình vẫn được tiến hành; biện pháp đình chỉ thi công không xác định rõ thời gian chỉ áp dụng đối với công trình gây sự cố lớn cho công trình lân cận. 2- Việc bồi thường thiệt hại vẫn do các bên tự thỏa thuận, dù nhiều trường hợp không chỉ là bồi thường về thiệt hại vật chất. Tuy nhiên, nếu hai bên không thỏa thuận được, phải khởi kiện ra Tòa, thì khi Tòa thụ lý vụ án, án phí được đóng, bên gây hại cam kết chấp hành án tòa, không kiện cấp Tòa cao hơn, thì cần giải tỏa quyết định đình chỉ thi công công trình. Vấn đề bồi thường sẽ tiếp tục thực hiện sau đó, theo kết quả phân xử của Tòa. 3- Cần sửa đổi và bổ sung Luật kinh doanh bảo hiểm, theo đó buộc nhà thầu xây dựng (hay chủ đầu tư) phải mua bảo hiểm cho công trình thiết bị thi công, cho trách nhiệm bên thứ ba, với những mức chi tiết cho từng loại hính, từng quy mô, sự phức tạp của công trình phù hợp thông lệ khu vực. Điều này có thể làm tăng thêm chi phí cho nhà thầu, tư vấn, chủ đầu tư và cả người dân khi xây dựng lại nhà ở của mình, vì giá bỏ thầu sẽ cao hơn, nhưng là chi phí cần thiết cho một xã hội tiến bộ, để những bất cập xảy ra không bị lúng túng trong hành xử thực tế. Ngoài ra, bảo hiểm hoạt động tư vấn xây dựng (bắt buộc) cần quy định mức sàn, để tránh việc thực hiện còn hình thức, đối phó, như hiện nay. Bảo hiểm phải là cánh tay nối dài của QLNN về chất lượng công trình xây dựng, theo hướng xã hội hóa, xã hội tự giải quyết cách hệ thống, đúng mực và có thực hiện, góp phần quan trọng để giảm thiểu sự cố xảy ra và khi sự cố xảy ra, việc giải quyết sẽ không quá phức tạp, kéo dài, gây tranh cãi như hiện nay. |
Những bất cập khi mở đường trong Đô thị
Ngày 17 tháng 3 năm 2010
10:53' 5/6/2008 | ||
Việt Nam còn quá nhiều bất cập, từ quy hoạch đến giao dự án, thu hồi đất và giải toả mặt bằng. Hiện nay cơ chế chủ yếu là: Không có qui chế rõ ràng cho việc quản lý. source http://www.landtoday.net/vn/tintuc/xaydung/12129/index.aspx |
Vướng mắc trong xây dựng cơ bản, đâu là nguyên nhân chính?
Cty Hương Giang (Bộ Quốc phòng) thi công đường 70 đoạn qua Yên Bái. |
source
http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=38&sub=55&article=147253
Bất cập trong các văn bản về tiền sử dụng đất ở Phú Mỹ Hưng
Đăng ngày 30 tháng 11 năm 2009) |
Khu đô thị Phú Mỹ Hưng vừa được Nhà nước tặng cho danh hiệu “Khu đô thị mới kiểu mẫu” thể hiện tính hiện đại ở các lĩnh vực quy hoạch đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng cứng (đường điện, nước, cây xanh, thoát nước…), hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ (trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí…), xây dựng được một nếp sống văn minh hiện đại (sạch sẽ, an ninh, môi trường sống tốt cho cư dân…). Riêng Công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng cũng được Nhà nước tặng huân chương Lao động hạng nhất và nhiều phần thưởng khác, kể cả ngành thuế cũng được khen như sự đánh giá một đơn vị quản lý kinh tế tốt. Biết được khu đô thị này được xây dựng trên một vùng đất ngập mặn nghèo khổ của vùng Nhà Bè ngay từ khi đất nước ta vừa mới mở cửa thì hẳn nhiều người càng thêm khâm phục sự dũng cảm của nhà đầu tư. Từ đó, Phú Mỹ Hưng trở thành một thương hiệu và trong 15 năm qua đã có nhiều người nhờ “ăn theo” khu đô thị mới này mà trở thành những “đại gia lừng lẫy” trong giới địa ốc TP.HCM. Nhiều môi giới nhà, đất tại Phú Mỹ Hưng kêu khó do số vụ môi giới thành công giảm hẳn sau vụ lùm xùm về tiền sử dụng đất - Ảnh: H.TR. Nhấp đây để tìm kiếm các căn hộ hay nhà ở có sẵn tại Việt Nam Nhấp đây để đăng bất động sản bán hay cho thuê của bạn tại Việt Nam Năm 1989, để thực hiện đề án xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp, lãnh đạo TP.HCM cho thành lập Công ty Phát triển công nghiệp Tân Thuận (dưới đây viết tắt là Công ty Tân Thuận) và sau đó, công ty này hợp tác cùng Tập đoàn CT&D của Đài Loan xây dựng Khu chế xuất Tân Thuận từ năm 1991. Kế đó, hai bên cùng thành lập liên doanh thứ hai là Công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng (dưới đây viết tắt là Công ty Phú Mỹ Hưng) để xây dựng một đô thị mới mang tên Khu đô thị Nam Sài Gòn (nay gọi là Nam TP.HCM) rộng 2.600ha cùng tuyến đường dài 17,8km (nay gọi là đại lộ Nguyễn Văn Linh), trong đó Công ty Phú Mỹ Hưng xây dựng năm cụm đô thị với tổng diện tích 600ha (cụm A lớn nhất, chiếm khoảng 300ha, nay chính là Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng) và đường Nguyễn Văn Linh. Cả hai liên doanh trên, phía Việt Nam góp vốn bằng đất trống - tức quyền sử dụng đất trong 50 năm - và được nhận 30% cổ phần trong liên doanh, phía nước ngoài đầu tư tiền vốn xây dựng, kiến thức kinh nghiệm và ứng trước một khoản tiền để phía Việt Nam làm công tác đền bù, giải tỏa đất. Theo giấy phép đầu tư số 602/GP, ngày 19-3-1993, Nhà nước cho phép Công ty Phú Mỹ Hưng kinh doanh cơ sở hạ tầng công trình dân dụng… trên vùng đất đưa vào liên doanh với những chính sách ưu đãi cho những nhà đầu tư sớm hưởng ứng chính sách thu hút đầu tư của nước ta. Nhờ đó mà những khó khăn từ sự thiếu một hệ thống luật pháp cho một nền kinh tế mở cửa đã được lãnh đạo thành phố cũng như các bộ ngành lúc bấy giờ tháo gỡ để đề án được thực hiện và đạt được kết quả như ngày hôm nay. Nhưng sự ra đời và phát triển của đề án này cũng gây nhiều tranh cãi nhất, cơ bản là do sự thiếu đồng bộ của luật pháp (luật lệ của nước ta hình thành theo cách vừa chạy vừa sắp hàng, nhưng cũng thường “sắp lộn hàng” nên có nhiều bất cập). Đây chính là nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự tranh cãi triền miên về hoạt động của Công ty Phú Mỹ Hưng. Trong mười mấy năm qua, những tranh chấp làm ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng khu đô thị này có thể kể ra như sau: Tranh cãi về đơn vị đứng ra đền bù giải tỏa: Công ty Tân Thuận hay Công ty Phú Mỹ Hưng. Theo hợp đồng liên doanh, đó là Công ty Tân Thuận, nhưng lại không được cấp quản lý cao hơn chấp nhận (viện lẽ trong giấy phép đầu tư ghi là phía Việt Nam góp vốn bằng đất, không ghi rõ là đất trống, mặt dù các văn bản của Ủy ban Nhân dân TP.HCM, Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư với nước ngoài trước đó đều trình cho Thủ tướng là phía Việt Nam góp vốn bằng đất trống). Việc tranh chấp này kéo dài mấy năm, làm cho công tác đền bù giải tỏa bị chậm lại. Mãi đến tháng 6-2000, thường trực Thành ủy và Ủy ban Nhân dân TP.HCM có thông báo chính thức khẳng định là phía Việt Nam trong liên doanh chịu trách nhiệm đền bù thì tranh cãi mới chấm dứt. Nhưng hậu quả là giá đất vùng này đã bị tăng lên nhiều lần so với quyết định ban đầu, làm cho tiền đền bù không còn đủ để giải quyết nữa, từ đó việc giải tỏa bị bế tắc cho đến ngày nay. Trên thực tế, việc góp vốn của phía Việt Nam trong liên doanh chỉ được một nửa (khoảng 300ha thay vì 600ha). Tranh cãi về quy hoạch chi tiết công viên: công viên nên xây dựng tập trung như Công viên Tao Đàn hay phân tán nhỏ ra? Phần công viên ở rải rác thuộc về vùng đất 600ha của liên doanh hay thuộc vùng đất 150ha mà Công ty Phú Mỹ Hưng xây dựng hạ tầng giao lại cho thành phố (tổng diện tích này khoảng 6ha) và một số chức năng địa dụng khác trong quy hoạch chi tiết chưa có sự thống nhất giữa Viện Quy hoạch TP.HCM và Công ty Phú Mỹ Hưng. Cuộc tranh cãi này cũng kéo dài nhiều năm, làm ảnh hưởng đến việc thông qua quy hoạch chi tiết của Khu đô thị Phú Mỹ Hưng và đây cũng là một trong lý do làm chậm trễ việc cấp sổ đỏ cho dân sau này. Vấn đề chức năng xây dựng và kinh doanh nhà của Công ty Phú Mỹ Hưng (giấy phép ghi rõ là xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng tại các điểm dọc tuyến đường), bao gồm: - Xây dựng cơ sở hạ tầng tiện nghi tiện ích công cộng; tự đầu tư hoặc hợp tác với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để xây dựng các cơ sở thương mại, dịch vụ, công nghiệp và công trình dân dụng… thế nhưng có quan chức lý giải chức năng trên không ghi là cho xây nhà bán để lại cho dân, chỉ được xây nhà cho thuê! Mãi sau này mới có văn bản khẳng định được phép xây nhà để bán cho dân và thêm một loại văn bản hướng dẫn cho phép kinh doanh khác (số 89/UB-QLĐT ngày 6-3-2000 của Ủy ban Nhân dân TP.HCM; số 134/CP. QHQT, ngày 1-2-2002 của Chính phủ; số 112/2002/QĐ-UB ký ngày 8-10-2002… và gần đây là số 4575/QĐ-UBND ký ngày 3-10-2009 về việc thu hồi và giao đất cho người mua nhà ở, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở của Công ty Phú Mỹ Hưng). Rắc rối thuế lợi tức doanh nghiệp: thuế suất là 10% hay 25%? Gần đây, việc tăng gấp đôi mức nộp tiền sử dụng đất so với năm trước ở Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng làm cho người mua nhà sửng sốt và kêu trời vì theo hợp đồng mua bán nhà ký với Công ty Phú Mỹ Hưng thì người mua phải nộp. Người dân đòi Công ty Phú Mỹ Hưng chịu, nhưng về mặt pháp lý cũng như căn cứ theo hợp đồng dân sự mua bán nhà đã ký giữa hai bên thì Công ty Phú Mỹ Hưng đều không phải nộp! Về mặt pháp lý, đây là một công ty liên doanh, trong đó phía Việt Nam góp vốn bằng đất (có quyền sử dụng đất trong 50 năm theo như quyết định số 865/TTg, ngày 16-11-1996 do Thủ tướng Chính phủ ký) để có được 30% cổ phần trong liên doanh. Về mặt nghĩa vụ với TP.HCM, Công ty Phú Mỹ Hưng đã xây dựng tuyến đường Nguyễn văn Linh cùng hạ tầng cơ sở 150ha ở khu vực trên và đã giao lại cho thành phố (trị giá 28 triệu USD). Giấy phép đầu tư và quyết định số 865/Ttg là cơ sở pháp lý cao nhất cho sự hình thành và hoạt động của Công ty Phú Mỹ Hưng và chính trên cơ sở này mà Công ty Phú Mỹ Hưng từ chối nộp tiền sử dụng đất. Lãnh đạo Công ty Phú Mỹ Hưng cho biết sở dĩ họ chấp nhận những điều khoản của văn bản số 89 và số 112 của Ủy ban Nhân dân TP.HCM về việc nộp tiền sử dụng đất vì liên doanh có quyền sử dụng đất chỉ 50 năm. Khi người dân mua nhà và xin cấp quyền sử dụng đất kèm theo nhà lâu dài (vượt quá 50 năm) thì Nhà nước có thể đòi tiền sử dụng đất thêm và người dân phải đóng tiền cho Nhà nước. Những năm đầu, số tiền này rất nhỏ, người dân không thắc mắc gì. Nhưng những năm sau, mức đóng góp tăng dần và hiện nay thì quá cao, nhất là trong hai năm 2008 và 2009, tới mức người dân không chịu nổi nên mới phải kêu ca và họ quay sang đòi hỏi nhà đầu tư phải đóng. Do đó Nhà nước nên xem lại mức đóng tiền sử dụng đất có hợp lý không, tại sao vùng đất Phú Mỹ Hưng lại cao hơn mọi nơi khác trong quận 7. Hơn nữa, khoản thu này là thu trước, mà đúng ra người dân chỉ phải nộp sau khi liên doanh đã hết quyền sử dụng đất. Trong hơn nửa tháng qua, các luận điểm của báo chí rất khác nhau, có thể là do thông tin thiếu đầy đủ, hơn nữa, các văn bản pháp lý liên quan đến Khu đô thị và Công ty Phú Mỹ Hưng có rất nhiều điều bất cập. Hiện nay, phản ứng của người dân phần lớn là trên cơ sở quyền lợi riêng của mình (người dân không có đủ điều kiện để hiểu hết những bất cập của luật lệ). Nếu sự đóng góp vừa phải (mua trâu phải mua cả dây buộc trâu) thì cũng có thể chấp nhận được mà không cần phải truy xét xem có hợp luật lệ hay không. Chỉ đến khi mức đóng góp quá mức (tiền mua dây gần bằng tiền mua trâu, nếu không mua dây sẽ không được dắt trâu đi) thì vấn đề mới nổi cộm như hiện nay. Tình trạng tranh cãi hiện nay giữa khách hàng mua nhà và Công ty Phú Mỹ Hưng giống như hai người ngồi trong nhà bị dột mà cứ cãi nhau ai là người có lỗi vì không chuẩn bị dù để che mưa vậy. Hiện nay Nhà nước đang kêu gọi cải cách thủ tục hành chính để giảm sự phiền hà cho người dân cũng như cho hoạt động của doanh nghiệp. Do đó việc tranh chấp về đóng tiền sử dụng đất tại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng là một điển hình cụ thể về những bất cập trong luật lệ cũng như trong thủ tục hành chính ở nước ta. Mong rằng Bộ Tư pháp và các bộ ngành liên quan nên tham gia giải quyết một cách triệt để, đúng luật. Không nên tái diễn cách xử lý theo kiểu chữa cháy bằng những thông tư chỉ đạo từng vụ từng việc trên tinh thần “vừa chạy vừa sắp hàng và lại sắp lộn hàng” nữa. Theo PHAN CHÁNH DƯỠNG - Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần |
http://www.metvuong.com/thongtin/9301_Bat-cap-trong-cac-van-ban-ve-tien-su-dung-dat-o-Phu-My-Hung.html
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản “Liều thuốc” cho công tác đầu tư xây dựng | |
| |
Ngày mai 1/8/2009, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư XDCB sẽ chính thức có hiệu lực. Đây được coi là một việc đột phá cả trong xây dựng văn bản luật và cũng là “liều thuốc” hết sức hiệu nghiệm để tháo gỡ hàng loạt khó khăn, vướng mắc, đơn giản hóa thủ tục,… trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Lần đầu tiên một Luật sửa đổi nhiều Luật được Quốc hội ban hành cho thấy lĩnh vực đầu tư XDCB được đặc biệt quan tâm. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư XDCB số 38/2009/QH12 bao gồm 7 điều, trong đó có 5 điều sửa đổi, bổ sung các Luật: Xây dựng, Đấu thầu, Doanh nghiệp, Đất đai, Nhà ở. Những nội dung thay đổi hầu hết đều liên quan trực tiếp đến quản lý đầu tư xây dựng. Với những vấn đề liên quan đến Luật Xây dựng, một số điểm về năng lực hành nghề xây dựng, quản lý chi phí đầu tư, các bước thiết kế xây dựng công trình, thi tuyển thiết kế kiến trúc, thẩm định phê duyệt công trình,… đều được sửa đổi, bổ sung với nội dung bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế thị trường trong việc quyết định điều chỉnh dự án và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, giảm thời gian chuẩn bị đầu tư ở các khâu thẩm định, phê duyệt phù hợp với các Luật liên quan. Về Luật Đấu thầu, đây là một trong những trọng tâm sửa đổi của Luật này. Nội dung sửa đổi gồm 5 nhóm vấn đề cơ bản: Sửa đổi quy định về đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu; vấn đề chỉ định thầu; phân cấp trong đấu thầu; chế tài xử lý các hành vi vi phạm; một số vấn đề về quy định sơ tuyển, tiếp nhận hồ sơ dự thầu. Những sửa đổi ở các lĩnh vực trên để tháo gỡ vướng mắc liên quan đến công tác đấu thầu đã tồn tại trong nhiều năm qua. Chẳng hạn như bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 11 (tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi không được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế cho dự án). Những sửa đổi trên cũng tạo sự chủ động, linh hoạt cho người quyết định đầu tư trong việc sơ tuyển nhà thầu, quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu. Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung này còn tăng cường phân cấp trong đấu thầu cho chủ đầu tư đi đôi với việc tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát, xử phạt của người quyết định đầu tư. Chẳng hạn, người quyết định đầu tư được quyền hủy, đình chỉ, không công nhận kết quả lựa chọn nhà thầu khi có căn cứ cho thấy có hành vi sai trái trong quá trình lựa chọn nhà thầu làm thiệt hại lợi ích của nhà nước. Những việc này có thể rút ngắn thời gian trong đấu thầu và gắn trách nhiệm trực tiếp của chủ đầu tư đối với chất lượng và tiến độ của dịch vụ tư vấn, hàng hóa và công trình. Ngoài ra, trong những vấn đề sửa đổi, bổ sung liên quan đến Luật Đấu thầu còn tăng cường nhiều chế tài xử phạt vi phạm pháp luật đấu thầu (bao gồm cả các hành vi không bán hồ sơ mời thầu, sử dụng lao động trái phép đối với gói thầu, nhà thầu không đảm bảo chất lượng và tiến độ thỏa thuận trong hợp đồng,...). Việc xử lý các vướng mắc về thủ tục đấu thầu cho phù hợp với thực tế cũng được đề cập nhiều, đặc biệt về chỉ định thầu, nguyên tắc xây dựng hợp đồng, thanh toán cho nhà thầu, điều chỉnh hợp đồng, xử lý tình huống trong đấu thầu,… 3 Điều còn lại của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư XDCB dành để sửa đổi, bổ sung các vấn đề của Luật Doanh nghiệp, Nhà ở và Đất đai. Đây cũng là những điểm “nóng” và tồn tại nhiều vướng mắc, cản trở và làm chậm tiến độ công tác đầu tư cũng như tiến độ các dự án trong thời gian vừa qua. Thời gian vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành liên quan khẩn trương xây dựng và hoàn thành các dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành để triển khai và đưa Luật sửa đổi các Luật liên quan đến đầu tư XDCB đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả, đảm bảo mục tiêu và ý nghĩa của văn bản pháp luật. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng nhanh chóng phối hợp hoàn thành dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng, Bộ Xây dựng hoàn thành dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thành dự thảo Nghị định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Thời điểm hoàn thành các công việc trên được ấn định trước thời điểm ngày 10/8/2009. Ngoài ra, Bộ Tư pháp phải đẩy nhanh tiến độ thẩm định các dự thảo, đồng thời gấp rút xin ý kiến các thành viên Chính phủ. Đức Thắng |
http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/kinh-te-xa-hoi/Luat_sua_doi_bo_sung_mot_so_dieu_cua_cac_luat_lien_quan_den_dau_tu_xay_dung_co_ban-Lieu_thuoc_cho_cong_tac_dau_tu_xay_dung/
Tìm giải pháp tháo gỡ những bất cập trong giám định tư pháp
Pháp lệnh Giám định tư pháp quy định 4 nguyên tắc bắt buộc trong giám định tư pháp, gồm: tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn; trung thực, chính xác, khách quan; chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề liên quan đến vụ án trong phạm vi được yêu cầu; chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận giám định.
Người giám định tư pháp gồm giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp theo vụ việc. Trong hai trường hợp này thì chỉ giám định viên tư pháp được quy định chặt chẽ (như phải có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn theo ngành học từ 5 năm trở lên), còn giám định theo vụ việc quy định đơn giản hơn.
Điều 13 của Pháp lệnh đưa ra quy định khá ngặt về "nghĩa vụ của người giám định tư pháp" với 10 điểm. Trong đó đáng chú ý như, người giám định tư pháp phải thực hiện giám định theo đúng nội dung yêu cầu, đúng thời hạn, trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho cơ quan trưng cầu giám định, người trưng cầu giám định biết. Họ cũng phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và giải thích kết luận giám định khi có yêu cầu, nếu đưa ra kết luận sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì phải bồi thường…
Xem ra, các nghĩa vụ trên về mặt pháp lý là chặt. Nhưng thực tế áp dụng, chỉ có tổ chức giám định tư pháp được thành lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự là chấp hành nghiêm. Các tổ chức này có tư cách pháp nhân, đặc biệt là hệ thống tổ chức, bộ máy điều hành, hoạt động khoa học như Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an địa phương, Viện Kỹ thuật hình sự Bộ Quốc phòng.
Còn lại, tổ chức chuyên môn có đủ điều kiện về chuyên môn, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc giám định (thuộc các bộ, ngành, sở) dù cũng có chức năng tham gia giám định lĩnh vực chuyên môn nhưng do đây là các tổ chức chỉ mang tính hành chính, lại không bị ràng buộc bởi các hoạt động trong tố tụng hình sự nên thực sự khó áp dụng các quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp đối với họ.
Nói như một số ý kiến thì mời được tổ chức này tham gia giám định đã là tốt, nói gì việc ép buộc họ làm đúng tiến độ, đúng yêu cầu. Cho nên, dù quy định của Pháp lệnh là phải đảm bảo đúng thời hạn, đúng yêu cầu, giám định sai gây thiệt hại phải bồi thường nhưng quá khó để yêu cầu xử lý họ.
CQĐT họp bàn giám định một vụ án phức tạp.
Có lẽ nhiều Bộ, ngành hiểu thực trạng đó, gần đây "thương" cơ quan tố tụng bằng cách siết chặt lại quy định giám định trong ngành, lĩnh vực mình. Như Bộ Xây dựng cuối năm 2009 ban hành Thông tư hướng dẫn giám định tư pháp xây dựng. Thông tư này quy định về tổ chức chuyên môn giám định tư pháp xây dựng, trình tự, thủ tục thực hiện giám định tư pháp xây dựng và chi phí.
Theo đó, giám định tư pháp xây dựng là việc giám định liên quan đến hoạt động xây dựng, công trình xây dựng hoặc bộ phận công trình xây dựng, sản phẩm xây dựng theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm phục vụ giải quyết các vụ án hình sự và vụ việc dân sự. Các lĩnh vực giám định tư pháp xây dựng bao gồm: giám định tư pháp về hoạt động xây dựng, về công trình xây dựng hoặc bộ phận công trình xây dựng, về sản phẩm xây dựng.
Thông tư yêu cầu "tổ chức giám định phải hoàn trả chi phí giám định, bồi thường thiệt hại trong trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức liên quan". Xem ra, quy định này thể hiện rõ chế tài với giám định viên, tổ chức giám định nếu cố ý làm sai, nhưng thực ra cũng là việc nhắc lại những gì đã nêu trong Pháp lệnh Giám định tư pháp.
Cùng với lĩnh vực xây dựng thì giao thông công chính cũng là mảng nóng, sự nóng của vụ việc trong khi khâu giám định không bám kịp khiến nhiều vụ án bế tắc. Cũng như xây dựng, luật pháp không quy định thành lập tổ giám định tư pháp trong ngành Giao thông công chính mà chỉ thực hiện trưng cầu giám định đối với giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc và tổ chức chuyên môn có điều kiện, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện giám định.
Giám định viên tư pháp giao thông công chính là người có đủ tiêu chuẩn quy định được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm và cấp thẻ giám định viên tư pháp. Bộ Tư pháp cấp và thu hồi thẻ giám định viên tư pháp theo đề nghị của Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
Cùng với sự phát triển của lĩnh vực giao thông công chính, các tranh chấp cũng như các vi phạm trong lĩnh vực này như tai nạn giao thông, xây dựng cầu đường ngày càng nhiều, phát sinh nhu cầu về giám định của hoạt động tố tụng, bao gồm cả tố tụng hình sự và dân sự. Trong khi đó, đặc thù của hoạt động giao thông công chính là đa lĩnh vực, nhiều đối tượng, tổ chức tham gia, sử dụng nhiều trang thiết bị phương tiện kỹ thuật, phạm vi hoạt động trải rộng, thời gian dài. Vì vậy, công tác giám định tư pháp trong lĩnh vực giao thông công chính cũng trở nên đa dạng và phức tạp.
Nhiều vi phạm luật pháp trong lĩnh vực xây dựng giao thông, vận tải, phương tiện, người điều khiển phương tiện giao thông gây ra lãng phí thất thoát, hoặc ảnh hưởng đến thân thể, tính mạng của con người nhưng chưa được xử lý kịp thời. Những vụ án liên quan công trình giao thông, dẫu người dân thấy sự ăn bớt bằng mắt thường khi thấy nền đường bị làm dối, hay cọc tiêu lõi bằng tre, nhưng khâu giám định lại không dễ.
Sự kéo dài thời gian khiến bên đầu tư, thi công viện rằng do thời gian lâu nên công trình xuống cấp, hoặc cũng vì những lý do nội bộ mà bị chìm xuồng, không thực hiện hoặc không thể thực hiện giám định tư pháp. Điều đó đã làm cho chế tài thực thi luật pháp chỉ có ý nghĩa trên giấy, không nghiêm túc trên thực tiễn.
Một nghiên cứu cho thấy, những công trình giao thông ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của từng người dân, của xã hội. Khi hạ tầng giao thông như đường sá, cầu cống kém chất lượng, xuống cấp thì làm cho lưu thông bị ngừng trệ, lãng phí về thời gian, ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế. Chủ đầu tư là người duy nhất khẳng định về chất lượng công trình, tư vấn giám sát công trình là người giúp chủ đầu tư thực hiện quản lý chất lượng công trình. Nhưng chất lượng công trình phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, đạo đức của người cán bộ giám sát cũng như trình độ quản lý dự án của chủ đầu tư.
Người dân hưởng thụ các sản phẩm của xây dựng công trình giao thông nhưng lại không có được những thông tin, đánh giá mang tính độc lập về chất lượng công trình. Do vậy, khi có sự cố công trình xảy ra, ảnh hưởng đến lợi ích, tính mạng của con người, thường sẽ nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến việc xác định nguyên nhân cũng như trách nhiệm dẫn đến sự cố (vụ sập cầu dẫn đang thi công ở cầu Cần Thơ là một ví dụ).
Cây gỗ sưa này, để giám định phải gửi đến Viện Lâm sản với chi phí không nhỏ.
Quan sát các vụ án kinh tế, chức vụ phải trưng cầu giám định, nhất là lĩnh vực xây dựng, giao thông, thủy lợi…, chúng tôi nhận thấy những tồn tại chủ yếu sau đây:
Một, việc hình thành lực lượng giám định tư pháp còn rất phân tán theo Bộ, ngành và địa phương, số này chủ yếu kiêm nhiệm khi có yêu cầu còn bình thường tham gia việc khác. Khi cơ quan tố tụng cần trưng cầu thì các Bộ, ngành, địa phương nhận được văn bản trưng cầu mới cho tìm giám định viên để thực hiện, quá trình đó kéo dài. Khi thực hiện, giám định viên cũng không tận lực, còn sự sao nhãng. Thêm vào đó là chuyên môn có hạn nên vụ việc bị trả về CQĐT không ít.
Thứ hai, chưa có ràng buộc trách nhiệm pháp lý và chế tài xử lý cụ thể. Khi giám định viên, tổ giám định kéo dài, trễ thời hạn, họ đưa ra các lý do biện minh, trong khi nếu kết luận không chính xác thì cũng khó xử lý bởi quan niệm "vụ việc phức tạp, khó giám định".
Thứ ba, việc trưng cầu chính tổ giám định thuộc các Bộ, ngành, có lý do để nghi ngờ sự khách quan, vô tư. Chẳng hạn, khi CQĐT cần điều tra vụ án rút ruột công trình giao thông, bản trưng cầu giám định được gửi đến chính ngành Giao thông vận tải và ngành này lại sử dụng giám định viên mình quản lý. Chắc chắn, giám định viên dù muốn hay không cũng bị các chi phối bởi quan niệm "ăn cây nào, rào cây ấy", chưa nói đến những tiêu cực khác phát sinh do tính chất nội bộ. Đây là vấn đề cần sớm được điều chỉnh.
Thứ tư, hiện chưa có một cơ chế, hướng dẫn cụ thể cho việc trưng cầu giám định tư pháp ngành, lĩnh vực. Theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp, hoạt động này do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu nhằm phục vụ việc giải quyết các vụ án. Thế nhưng lại không quy định chức năng giám định bổ trợ tư pháp cho cơ quan cụ thể nào trong khi thực tế xét xử của tòa án gặp phải nhiều vụ việc mà giá trị tài sản, mức độ thiệt hại là cơ sở để định tội, đánh giá bản chất… Điều này khiến tòa án gặp nhiều khó khăn trong xét xử. Cũng có một số trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng chưa đúng những quy định của pháp luật về giám định tư pháp, nhất là việc định giá các tài sản bị xâm hại.
Điểm nữa, mọi kinh phí giám định hiện không có ngân quỹ riêng và phải lấy từ kinh phí điều tra. Những vụ án lớn, kinh phí giám định mà phía cơ quan giám định tư pháp đưa ra, có khi lên tới hàng tỷ đồng. Choáng với khoản kinh phí lớn này, có lý do để hiểu không ít CQĐT ái ngại khi ký trưng cầu giám định.
Với những tồn tại đó, đã đến lúc cần phải xem xét lại toàn bộ hoạt động giám định tư pháp, cả về luật pháp lẫn thực tiễn
source
http://www.baomoi.com/Info/Tim-giai-phap-thao-go-nhung-bat-cap-trong-giam-dinh-tu-phap/58/3983565.epi
Giải quyết vấn đề chồng chéo tại các luật liên quan tới đầu tư xây dựng cơ bản
CIC32 | Construction Investment Corporation | http://cic32.com.vn |
13.04.2009
Việc tổ chức hội thảo lấy ý kiến dự thảo luật sửa đổi một số điều của các luật liên quan tới đầu tư xây dựng cơ bản để giải quyết vấn đề chồng chéo giẫm chân lên nhau giữa các luật liên quan đến lĩnh vực đầu tư xây dựng như: Luật đầu tư, Luật xây dựng, Luật kinh doanh bất động sản, Luật nhà ở, Luật đất đai…là một việc rất cần thiết. Đồng thời việc đưa ra ban hành dự thảo luật sửa đổi cũng góp phần làm giảm bớt các thủ tục hành chính, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
Ông đã đưa ra những góp ý cụ thể đối với luật xây dựng như tại Điều 7, điểm 4 cần thêm yếu tố “và không vi phạm những quy định về đạo đức nghề nghiệp được Hiệp Hội Nghề nghiệp xác nhận” .Bên cạnh đó ông cũng có những góp ý đối với điều Điều 40, 1b, Điều 43, điểm 3 và Điều 54 và 59.
Tham gia góp ý tại hội thảo, Gs. TSKH Đặng Hùng Võ đưa ra một thực tế là trong vận hành pháp luật về đất đai, hiện đã xảy ra tình trạng nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất, trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê và nhà đầu tư trong nước phải áp dụng chế độ Nhà nước giao đất trả tiền sử dụng đất. Trong khi đó, Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước lại tính tiền thuê đất chỉ bằng khoảng 30% tiền sử dụng đất. Như vậy, Nghị định này làm cho nhà đầu tư nước ngoài chỉ phải trả khoảng 30% tiền sử dụng đất, trong khi đó nhà đầu tư trong nước phải trả 100% tiền sử dụng đất (quyền và nghĩa vụ ngang nhau).
Ông cho rằng: "nếu chúng ta cho phép nhà đầu tư trong nước cũng được hưởng chế độ thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì không có sự phân biệt giữa hình thức này với hình thức giao đất trả tiền sử dụng đất, hơn nữa sẽ nẩy sinh sự bất bình đẵng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài".
Vì vậy, ông đề nghị không sửa điểm a khoản 2 Điều 35 mà để nghị định của Chính phủ điều tiết lại tiền thuê đất trả một lần đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Ông cũng đưa ra nội dung sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 42. Theo ông việc sửa đổi bổ sung này là hợp lý nhằm đưa giá đất tính bồi thường cho người bị thu hồi đất gần hơn với thời hạn thanh toán tiền.
Luật gia Cao Bá Khoát - Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn doanh nghiệp K và Cộng sự đã đưa ra một số nhân xét: nhìn chung, Dự thảo đã đạt được một số thành tựu nhất định, khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Việc ban hành Luật này sẽ khớp nối những xung đột, khập khiễng giữa các luật về trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản. Ví dụ như việc tách giấy chứng nhận đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ban hành mẫu thống nhất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất …
Mặt khác, nếu GCNĐT được cấp cho doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập thì là dự án đó lại là một dự án đầu tư trong nước vì doanh nghiệp được cấp GCNĐT là một doanh nghiệp Việt Nam (Khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp quy định: “Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh”). Vậy, phân biệt nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn ý nghĩa. Mà cần phải xây dựng tư duy không phân biệt đối xử khi chúng ta đã gia nhập WTO vì bất cứ nguồn vốn đầu tư nào kể cả trong và ngoài nước đều tạo ra ba hệ quả: tạo ra sản phẩm, tạo ra thuế và tạo ra việc làm.
Ông Phạm Trọng Vân - Tổng Giám đốc Tổng Công ty xây dựng An Bình cho rằng, đối với người có thẩm quyền thì hình thức lựa chọn nhà thầu phải do luật qui định, người có thẩm quyền thực hiện theo luật vì vậy không nên để người có thẩm quyền tự quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu. Việc tự quyết định này sẽ dẫn đến tham nhũng và không chọn được nhà thầu có năng lực, không tiết kiệm được ngân sách thông qua đấu thầu.
Đồng thời ông cũng đề nghị, tại khoản 3, 4 Điều 57 Luật Đấu thầu bỏ ý: “Giá hợp đồng sau điều chỉnh không làm tăng tổng mức đầu tư đã duyệt”, vì: Tổng mức đầu tư được lập trước khi đấu thầu một thời gian dài, sau đấu thầu mấy tháng mới kí hợp đồng xây lắp. Vì thế điều chỉnh hợp đồng tăng lên do biến động giá tăng thì đương nhiên là vượt tổng mức đầu tư. Việc duyệt lại tổng mức đầu tư đã làm chậm tiến độ thi công và cũng rất phiền phức cho việc duyệt lại này.
Hồ Hường
source
file:///C:/DOCUME~1/juanlee/LOCALS~1/Temp/News-273.html